Phân tích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc là một trong những dạng bài thường gặp trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Nhằm giúp các bạn học trò hiểu rõ hơn về hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Hoatieu xin san sớt một số mẫu bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cụ thể nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
- Top 6 bài phân tích Câu cá mùa thu
- Phân tích Việt Bắc hay nhất
- 6 bài phân tích Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn tế được tác giả Nguyễn Đình Chiểu sáng tác để ngợi ca, tiếc thương và kính phục những nghĩa quân đã quả cảm đứng lên chống thực dân Pháp tại Cần Giuộc vào năm 1861. Qua bài văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc, người đọc có thể thấy được những người chiến sĩ áo vải can trường, quật cường chỉ là những người nông dân nghèo khổ nhưng họ đã quả cảm đứng lên để đấu tranh lúc thực dân Pháp sang xâm lược. Trong bài viết này Hoatieu xin san sớt một số bài văn mẫu phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
I. Mở bài
– Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu: một tác giả mù nhưng tư cách vô cùng cao đẹp, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc và “càng nhìn càng thấy sáng” (Phạm Văn Đồng)
– Đôi nét về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng lớn lao của dân tộc
II. Thân bài
1. Phần lung khởi: nói chung bối cảnh thời đại và lời khẳng định sự bất tử của người nông dân nghĩa sĩ
+ “Hỡi ơi!”: Câu cảm thán trình bày niềm tiếc thương thật tâm, thiết tha, tiếc thương
+ “Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân
+ “Lòng dân trời tỏ”: đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương quốc gia ➨ Trời chứng giám
Nghệ thuật đối lập nhằm trình bày quang cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính trị lớn lao.
➨ Lời khẳng định tuy thất bại, những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi.
2. Phần thích thực: Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc
a. Nguồn gốc xuất thân
– Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê tới khai phá đất mới để kiếm sống)
+ “cui cút làm ăn”: hoàn cảnh sống lẻ loi, thiếu người nương tựa
– Nghệ thuật tương phản “chưa quen – chỉ biết, vốn quen – chưa biết.
➨ Tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người người hùng.
b. Lòng yêu nước nồng nàn
Khi thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ➨ trông mong tin quan ➨ ghét ➨ căm thù ➨ đứng lên chống lại.
➨ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ
– Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù tới tột độ
– Nhận thức về tổ quốc: Họ ko dung thứ những quân thù lừa dối, bịp bợm ➨ họ tranh đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi người nào bắt…”
c. Tinh thần tranh đấu hi sinh của người nông dân
– Tinh thần tranh đấu tuyệt vời: Vốn ko phải lính diễn binh, chỉ là dân ấp dân lân nhưng mà “mến nghĩa làm quân chiêu tập”
– Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử.
– Lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ”
– “đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi.
➨ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
3. Phần Ai vãn: Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ
– Sự hi sinh của những người nông dân được nói tới một cách hình ảnh với niềm tiếc thương thật tâm
– Hình ảnh gia đình: tang thương, lẻ loi, chia li, gợi ko khí đau thương, buồn phiền sau trận đánh.
– Sự hi sinh của những người nông dân nghĩa sĩ để lại xót thương đớn đau cho tác giả, gia đình thân quyến, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả nước
➨ Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử
➨ Văn pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi ko khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết của nghĩa quân.
4. Phần kết: ngợi ca vong linh bất tử của người nghĩa sĩ
– Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm còn lưu mãi
– Ông cũng nêu cao ý thức tranh đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân
– Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người người hùng thất thế.
➨ Khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.
III. Kết bài
– Khái quát những nét rực rỡ tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tác phẩm.
– Trình bày suy nghĩ bản thân.
2. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 1
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc như một “bức tượng đài nghệ thuật sừng sững hiên ngang” nhưng mà lạ thay gót thời kì ko hề tàn phá nổi. Nguyễn Đình Chiểu – con người đó đã đi xa chúng ta từ lâu lắm rồi nhưng những áng văn thơ của người còn trẻ mãi, đỏ mãi.
Hỡi ơi
Súng giặc tới rền Lòng dân trời tỏ.
Câu thơ tứ tự mở đầu tách đôi ra làm hai vế gãy gọn nhưng sức nói chung của nó thật lớn. Chỉ ngần đó câu chữ đã vẽ lên một cách, toàn diện về những điều nhưng mà người viết muôn gửi gắm: tội ác và nghĩa cả, cái đau thương tang thương và cái cao lớn xinh xắn, một bên là súng giặc tranh chấp với lòng dân.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn nhưng mà danh nổi tợ pha
Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất nhưng mà tiếng vang như mỏ.
Đã rõ hơn rồi, tác giả muốn nói điều gì. Câu thơ phản ánh sự tương phản, giữa “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây” – sức vùng lên mạnh mẽ, quyết liệt, nhanh lẹ của những người nông dân. Mười năm vỡ ruộng ít người nào biết tới, thế nhưng mà một trận nghĩa đánh Tây, những con người nghĩa sĩ đã gây được “tiếng vang như mỏ”. Tứ thơ như báo trước cái người hùng của họ, sức mạnh của họ và cả cái bi thương thế tất nữa.
Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn
Riêng lo nghèo túng.
Hình ảnh những con người phổ biến hiện lên, những con người sẽ làm nên lịch sử đó, họ chẳng phải là người nào cả, chỉ là những con người sống sau lũy tre làng, sau rặng dừa, bụi chuối vì nghĩa lớn nhưng mà hi sinh. Họ hi sinh lúc “Tổ quốc cần”. Và hình ảnh của họ trở thành cao đẹp từ đó. Họ chỉ là những người quen lấm láp với công việc cấy cày.
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng, chỉ biết:
Ruộng trâu ở trong làng bộ.
Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.
Cuộc sống của họ lặng thầm, ngày ngày chỉ biết lăn lộn cùng miếng cơm manh áo nhưng cuộc sống nghèo nàn vẫn ghì sát đất. Họ chưa bao giờ tưởng tượng nổi việc binh đao. Lần đầu nghe tin giặc Pháp giày xéo họ cũng có tâm lí chung của những người “thường dân” “con đỏ”, lo sợ, trông đợi rồi thất vọng.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng Trông tin quan như trời hạn trông mưa Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm Ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ. Chờ mong “tin sương” nhưng rồi nhạn vắng bóng. Họ đi từ thắc thỏm hi vọng tới vô vọng, từ lo sợ, hoảng sợ tới căm ghét – cái căm ghét trong mơ hồ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.
Cho dù sự căm ghét chỉ được phôi thai qua ý niệm mơ hồ nhưng sự phẫn nộ đã dâng lên ngùn ngụt. Họ muốn lao ra bằng tay ko để “ăn tươi nuốt tươi kẻ đã gây bao tội ác”. Đọc tới đây, ta chợt nhớ lại lời hịch sang sảng, vang vọng một thời của Trần Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” (Hịch tướng sĩ). Sự day dứt, đớn đau vò xé tâm can thôi thúc con người hành động, thôi thúc con người muốn “nuốt gan uống máu quân thù” cho hả dạ. ở Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc cũng vậy. Họ mở đầu nghĩ tới non sông quốc gia và cảm thấy nhục nhã nếu như cứ để cho lũ “chó má” đó giày xéo lên những trị giá ý thức của dân tộc nghìn thu văn hiến.
Một mối xa thư khổng lồ, há để người nào chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Ý thức được như thế, họ đã đi tới quyết tâm làm một cuộc nổi dậy. Họ vùng lên ý thức sẵn sàng tự nguyện.
Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Họ đã tưởng tượng ra một trận đánh tranh chính nghĩa. Họ chẳng cần phải trốn tránh lúc tiếng gọi của quê hương tha thiết tới thế. Họ biết phải tranh đấu, xả thân để giữ lấy bờ ao bụi chuối, giữ lấy mảnh đất biết mấy thân yêu gắn bó, giữ lấy những điều thiêng liêng nhưng mà họ cho là không phù hợp gì tới “ông cha nó” cả. Hình ảnh của họ thật đẹp, những tấm lòng của họ thật cao cả. Hình ảnh đó thật khác xa với người lính trước kia lúc phải đương đầu với tiếng trống giục quân bắt bớ “bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”.
Người nghĩa sĩ của Nguyễn Đình Chiểu bước vào trận đánh đấu vẫn mang một màu bình dị sáng trong. Họ là những người “dân ấp dân lân” với những vũ khí thô sơ, chỉ là một ngọn tầm vông, một nùi rơm, con cúi, thế nhưng họ đã dệt nên những trang sử hào hùng, vẻ vang. Họ thật cao đẹp, thật người hùng và tràn đầy dũng khí. Bên trong “manh áo chật” đáng thương, nhỏ nhỏ lại chứa đựng bao điều lớn lao, cao cả.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng hằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ.
Họ là những con người bình dị nhưng người hùng. Khi cầm cuốc làm ruộng họ là những con người hiền như đất, như khoai song lúc đương đầu với quân thù, họ ko kém phần dữ tợn. Họ hòa hợp bằng ý thức kết đoàn của người dân áo vải đất Việt. Cái ý thức kết đoàn nhưng mà trước đây Nguyễn Trãi từng ngợi ca trong Cáo bình Ngô.
Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phơi phới.
Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ lên hình ảnh của họ – của những con người cụ thể trong công cuộc đánh Tây bằng một tâm trạng nô nức, phấn khởi.
Chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như ko
Nào đợi thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu sung sướng vung lên như một thanh gươm trên chiến trường trước sức mạnh ồ ạt, tấn công dồn dập như vũ bão của những người nghĩa sĩ. Cách ngắt nhịp ngắn gọn đã tạo nên một khí thế xông trận bừng bừng, mang hơi thở gấp gáp của cuộc hỗn chiến. Trong quang cảnh đó, vẫy vùng giữa chiến địa chỉ còn có người nông dân mộ nghĩa quả cảm, uy phong lẫm liệt. Giọng thơ có khác nào hồn cáo của Nguyễn Trãi mấy trăm năm về trước.
Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh chiến bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn
Nguyễn Đình Chiểu có nhẽ cũng muốn lắm, để viết được những sự thất bại chồng chất của quân thù. Nhưng ở đây ta thấy trận đánh dù có rần rộ tới đâu đi nữa nó cũng mang tính chất của người dân cầm cuốc, cầm cày đã quen. Họ thất bại là phải, bởi lẽ:
Mười ban võnghệ nào đợi tập rèn
Chín chục trận binh thư ko chờ bày bố.
Đấy là những cơn người người hùng nhưng rất đáng thương. Nhìn hoàn cảnh đánh giặc của họ, người nào nhưng mà ko xót xa cho những con người cụ thể và xót xa cho cả toàn quốc gia. Cho nên âm điệu thơ như mặt hồ đang nổi sóng bỗng dưng lắng xuống, đang hừng hực lửa mặt trận bỗng chốc trở thành hoang vắng lạnh lùng, mang màu sắc bi thương não nuột.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ …
Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Những câu thơ như câm lặng trôi trong niềm kí ức của tác giả. Nhà thơ gửi một nỗi tiếc thương vô hạn cho những người đã khuất. Cái chết của họ làm cho cả trời đất, cây cối tang thương, nhỏ lệ, cái chết nhuốm màu sầu cửa ải lên vạn vật. Cả một bầu trời âm u, tối tăm trước sự hi sinh mất mát của những người nghĩa sĩ.
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.
Đồng lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đớn đau bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Những hình ảnh thương tâm đó gặm nhấm tâm can ta, vong linh ta đau nhức. Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử nhưng mà cất tiếng khóc cho những người người hùng hi sinh vì Tổ quốc. Từ những âm thanh thảm sầu vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta ko phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình nhưng mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của quốc gia. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu đã tụ hội lại mọi nỗi đau để cất lên tiếng khóc cao cả.
Sau phút giây đau thương, nức nở, lời ván đang đắm chìm trong thảm đạm bỗng tỉnh táo hẳn lên, nêu bật một quan niệm tuyệt vời về nhân sinh, về lẽ sống và cái chết.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn thờ, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác nhưng mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.
Hơn còn nhưng mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.
Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra một ý kiến mang tính nhân văn thâm thúy: Thà chết chứ nhất mực ko chịu làm nô lệ, làm những điều nhơ bẩn, ô danh. Câu thơ “sống đánh giặc thác cũng đánh giặc” dược nêu cao như một chân lí sống rực rỡ, chói ngời. Chân lí đó đã xua tan bao cảm giác bi thương, mất mát của người nghĩa sĩ đã dâng trọn tấm thân mình cho quốc gia, quê hương.
Thác nhưng mà trả nước non rồi nợ, sánh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen.
Thác nhưng mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn thuở người nào cũng mộ.
Họ là những tấm gương sáng cho muôn thuở con cháu tương lai. Linh hồn người nghĩa sĩ trong tưởng vọng thành kính của tác giả vẫn níu lấy cuộc sống để theo đuổi tới cùng sự nghiệp làm thịt giặc cứu nước, Với Nguyễn Đình Chiểu, họ vẫn sống và được ngưỡng mộ.
Ôi chết thế ko thể nào chết được
Không thể chết những người dân yêu nước
Những con người ko chịu ô danh.
(Tố Hữu)
Họ đã vui vẻ hoàn thành nghĩa cả cao đẹp như một người nông dân “cày xong thửa ruộng”. Cái chết của họ như một giấc ngủ trưa yên lành, mặc nhiên. Nhưng cái yên lành, mặc nhiên đó lại gợi nỗi đau nhức nhối trong tâm tưởng của bao kiếp người.
Với lối văn bình dân, giản dị, dùng nhiều thành ngữ, lời ăn tiếng nói đời thường, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa hùng tráng. Qua “Bức tượng đài nghệ thuật” đó tác giả gửi gắm một quan niệm sống tốt đẹp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu tình dân, nghĩa nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã khép lại nhưng lịch sử dân tộc vẫn được mở ra. Và chúng ta – những người con của quốc gia phải nhớ giữ lấy trị giá nghìn đời nhưng mà bao thế hệ, bao lớp người từng xây dựng nên giang sơn, gấm vóc của ngày hôm nay. Điều nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm đã xúc động viết lên những lời thơ xiết bao ân nghĩa.
Có biết bao người con gái đàn ông
Trong bốn nghìn lớp người giống ta thế hệ
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.
(Đất Nước)
3. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc thâm thúy. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều thảm kịch khổ cực và xấu số. Có nhẽ vì vậy nhưng mà hơn người nào hết ông càng cảm thu được nỗi đau mất nước lúc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau lúc chiếm được thành Gia Định chúng mở đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng phụ cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn tới. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa quân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần vũ Gia Định ủy quyền Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận hôm mai 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế ko những trình bày được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần Giuộc nhưng mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng nhưng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp quốc gia đều rền vang tiếng súng. Chính từ sự nguy nan, đau thương đó, tình yêu quốc gia của những người nông dân phổ biến mới được trình bày, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bộc bạch cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được trình bày một cách rõ rệt và thâm thúy hơn lúc tác giả đã liên tục dùng giải pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.
Nhớ lính xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó…
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi toan lo “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nông dân: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết tới “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen mặt trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà nhưng mà đứng lên đánh giặc.
Khi nhưng mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ trông ngóng mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”.
Thì ra cái thảm kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, ko hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì ko thể kiềm chế:
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ.
… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu quốc gia tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã làm cho họ trở thành xinh xắn, nhấp nhánh. Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã trở thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân lúc phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên tranh đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, đó là nét đẹp thực chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tới đây ko chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn nhưng mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực ý thức tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử nhưng mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố nhưng mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm làm cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như nhập vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đương đầu với quân thù vững mạnh với “đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quân xâm lược nhà nghề, vậy nhưng mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối nghịch với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thực phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã đó. Tấn thảm kịch này đã đưa tới cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn thảm kịch này nhưng mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên được bản người hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự nguy hiểm, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh tranh đấu, họ vẫn quyết đấu và quyết thắng, lấy ý thức xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với quân thù. Hoàn cảnh tranh đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ tranh đấu bằng chinh ý thức sự quyết đấu ko sợ hi sinh nên hiệu quả tranh đấu lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh..
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, ý thức dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Xúc cảm chủ đạo của bài Văn tế là xúc cảm bi tráng, lời văn rắn rỏi, âm điệu sục sôi, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy hiệu quả cao nhất của nó. Tất cả hợp thành một âm hưởng mặt trận hào hùng, phấn khích của một thiên người hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân, với những tư tưởng cực kì lớn lao nhưng mà tác giả đã phát xuất hiện trong hành động tự nguyện làm thịt giặc cứu nước của họ.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng nhưng mà bi tráng, tượng trưng cho ý thức yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của ông cha ta. Bức tượng đài đó là dấu mốc trình bày cả một thảm kịch lớn của dân tộc – thảm kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái thảm kịch lớn đó, ý thức quật cường của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ cần Giuộc họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
4. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu là thi sĩ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học Trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác khổng lồ, trình bày lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước thâm thúy. Trong hệ thống tác phẩm đó ta ko thể ko nhắc tới Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị làm thịt chết. Bấy giờ, tuần vũ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã thảm sát biết bao người dân Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh đó đã thử thách tấm lòng của con người đối với quốc gia. Người dân Nam Bộ đã ko nể nang sống chết, đem thân mình tranh đấu chống lại quân thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mệnh) để đổi lại tiếng tăm, tiếng thơm lưu truyền với muôn thuở. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng quả cảm kiên cường. Trước lúc giặc ngoại xâm tới họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác, họ sống cuộc đời bình dị, “cui cút làm ăn” với biết bao toan lo, bộn bề của cuộc sống. Họ chỉ biết tới nơi làng quê nghèo, nhưng mà chưa từng biết tới toàn cầu ngoài kia. Quanh năm suốt tháng những người nông dân đó bận rộn với công việc nông dân: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” còn những việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Nhưng lúc giặc xâm lược tới cương vực, tới sự bình yên vốn có, họ sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Trước hết đó là sự chuyển biến trong tình cảm. Họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” – tin giặc tới phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu tranh: “Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, độc ác của quân thù: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Tới lúc này họ đã có những chuyển biến rõ ràng về nhận thức, nếu lúc đầu trong những người nông dân đó vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông mong vào quân đội “như trời hạn trông mưa” thì tới đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về quân thù – những kẻ đi xâm lược thì ko hợp lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân với quốc gia: “Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Sự chủ động của họ thật uy phong, lẫm liệt đầy dũng khí.
Trong trận đánh Tây họ ko được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những đồ vật sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn tầm vông” “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ: “đạn nhỏ đạn to” “tàu đồng súng nổ”. Sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn “Đạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng như ko”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”, “Đâm ngang chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”,… Không hề sợ hãi trước uy thế của quân thù. Bằng việc sử dụng liên tục các động từ mạnh, nhịp độ nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên quang cảnh chiến trường tàn khốc, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, quật cường.
Những vũ khí hiện đại của quân thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, của người thân và của toàn thể non sông dân tộc cho sự hi sinh quả cảm của những con người quả cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số phận của người thân, từ nay sẽ rơi vào vòng nô bộc của quân thù. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm phục thâm thúy tới những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: “Thà thác nhưng mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn nhưng mà chịu chữ đầu Tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ ko chỉ bộc bạch lòng tiếc thương trước những người đã mất nhưng mà còn khẳng định những điều bất tử với thời kì và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai. Bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng ko phải là bi quan, yếu ớt.
Những vần thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trong sự tiếc thương và cảm phục của những người còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc thù trong câu: “Nước mắt người hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiêng dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” vừa trình bày được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất vừa tôn vinh công trạng của họ trong sự so sánh ngầm với triều đình.
Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, thân thiện với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc trưng tiếng nói đậm màu sắc Nam Bộ. Xây dựng hình tượng nghệ thuật – nghĩa sĩ nông dân chân thực, cụ thể, sinh động, lần trước tiên người nông dân được xuất hiện đầy xinh xắn, trang trọng tới vậy. Liên kết hài hoà các cụ thể trình bày tình cảm xúc cảm của người viết, tăng chất trữ tình cho bài văn tế, đồng thời giúp dễ dàng đi vào lòng người đọc.
Bằng tiếng nói giản dị, giàu xúc cảm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bộc bạch lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hi sinh quật cường của họ.
5. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 4
“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường…con mắt chúng ta phải chuyên chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng” đó là lời nhận xét của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng dành cho cuộc đời và thơ văn Đồ Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu thi sĩ mù lòa nhưng tâm ông vẫn luôn sáng. Nhắc tới ông người ta ko quên nhắc tới “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại văn tế để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng độc giả. Tác phẩm trình bày lòng hàm ơn, sự xót thương, cảm phục của tác giả dành cho những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc quả cảm, quả cảm quên mình vì nước. Để phân tích bài văn một cách bao quát và lạ mắt nhất ta chọn con mắt nhìn và điểm nhìn từ ý thức yêu nước của người nông dân.
Những người nông dân họ vốn là những con người thuần phác của nông dân nhưng nay vì lòng yêu nước thương nòi, lòng căm thù giặc thâm thúy nhưng mà họ trở thành những chiến binh quả cảm đã hy sinh trong trận chiến rằm tháng 11 năm 1861 _ thời khắc gay cấn của những ngày đầu chống Pháp.
Tại vì sao nhưng mà lại tương tự? Bởi “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” câu tứ tự hai vế tuy ngắn gọn nhưng nói chung được hoàn cảnh, tình thế của quốc gia lúc bấy giờ. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta chúng xâm chiếm, thi hành những chính sách áp bức bóc lột nặng nề đẩy nhân ta vào cảnh lầm than cùng cực. Câu văn trên đã cho ta thấy sự man di của thực dân. Chúng có vũ khí tối tân, sức công phá dữ dội, súng nổ vang rền mặt đất. Điều đó làm cho ta nhớ tới tội ác của giặc Pháp được thi sĩ tố cáo trong bài “Chạy giặc”:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim xáo xác bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Tiếng súng vô tâm vô tình của quân giặc ko bỏ sót một người nào, ko trừ một cảnh vật nào. Tất cả trở thành hoang tàn, xơ xác, lũng loạn sau “tiếng súng Tây”. Giặc thì tương tự chúng hiện đại hơn ta rất nhiều về trang thiết bị, về vật chất, số lượng lính tráng còn ta chỉ có một tấm lòng, một truyền thống yêu nước mãnh liệt của người nông dân, của những con người Việt Nam. Nghệ thuật tiểu đối được sử dụng rất thành công đối rất chỉnh, rất chuẩn: Mười năm <> một trận, công (vật chất)<> nghĩa (ý thức), chưa ắt còn danh nổi như phao<> tuy là mất tiếng vang như mõ đã khẳng định ý thức quyết tâm đánh giặc, làm nền để người nông dân xuất hiện. Tiếng khóc “hỡi ơi” thân thuộc mở đầu cho bài tế. Tiếng khóc lớn bộc bạch nỗi niềm đau xót, khóc thương cho vong linh của những nghĩa sĩ đã hy sinh oanh liệt.
Nhà thơ đã hồi ức và khắc họa lại hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc những người nông dân thuần phác thôn quê có một ý thức yêu nước quật khởi với cụm từ “Nhớ linh xưa”. Trước tiên họ là con người của ruộng đồng, của nông nghiệp, lam lũ mưu sinh “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo túng” đúng như Hoài Thanh nhận xét “Biết bao mến thương trong một chữ cui cút”. Nhà thơ bộc bạch lòng thương cảm đối với con người hiền lành, dáng dấp vất vả tới tội nghiệp. Họ là những con người chất phác, thuần nông ngoài việc đồng áng “chỉ biết ruộng trâu”, ko gian giao tiếp bó hẹp “ở trong làng bộ” với công việc của nông dân “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Nào họ có biết chi tới việc binh đao, giáo mác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhưng” rồi “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Biết bao cái chưa biết đó thế nhưng mà lúc giặc xâm lược nhũng nhiễu, triều định phản kháng yếu ớt họ dũng cảm bỗng chốc trở thành những người nghĩa sĩ người hùng cứu nước.
Lúc đầu họ cũng trông cũng mong vào sự phản công của triều đình. Nhưng trước bối cảnh nguy nan, triều đình bạc nhược để cho con dân của mình thốt lên “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Điển tích “tiếng phong hạc” lấy ở câu “Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh” để chỉ nỗi lo lắng, bồn chồn, sợ hãi trước sự tấn công hung bạo của quân thù. Là con là dân họ chỉ biết mong đợi vào quan phụ mẫu của mình mong cho quốc gia được bình yên để họ an tâm lập nghiệp nhưng chỉ là mòn mỏi trong kì vọng mươi tháng vời vợi. Và tất nhiên họ ko thể dương con mắt nhìn quốc gia rơi vào tay giặc. Trước đó họ chỉ ghét chúng bởi “mùi tinh rán vấy vá” tức chỉ mùi tanh hôi của giặc Pháp với hình ảnh so sánh rất lạ mắt “ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ”. Đó là một cái lẽ tự nhiên. Cách dùng từ thật sáng giá thích hợp tâm lí và suy nghĩ của người nông dân. Sự căm ghét được đẩy lên mức độ cao hơn lúc “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “Ngày xem ống khói chạy đen sì” nhưng mà “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Sự nhức nhối tới tận cùng, sự căm thù tới tột độ phải tới câu sau mới lên tới đỉnh cao “Một mối xa thư khổng lồ, há để người nào chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Điển tích, điển cố, từ ngữ Hán Việt đặc trưng thành ngữ “treo dê bán chó” được tập trung để trình bày ý chí quyết tâm chống giặc, con mắt tinh tường của nhân dân. Mặt nạ “khai hóa”, “tuyên giáo” của giặc Pháp bị vạch trần phơi bày dã tâm cướp nước ta của chúng.
Truyền thống và ý thức của dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc họ đứng lên đấu tranh với tất cả tấm lòng của người con Việt. Nhà thơ cảm phục trước ý thức và việc làm của họ điều đó đối lập hoàn toàn với thực lực của người nông dân. Họ ko đợi người nào đòi người nào bắt nhưng mà tự nguyện tranh đấu “phen này ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ” hàng loạt các động từ vựng ngữ chỉ hành động trình bày quyết tâm hăm hở, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” tranh đấu lúc trong tay là những đồ vật thô sơ, là những dụng cụ lao động thường nhật của nông dân là manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay… Họ ko phải dòng dõi nhà binh, ko được tập luyện, ko có tổ chức, ko có hiệu lệnh, hàng ngũ, kỷ luật, vũ khí lại thô sơ. Chính những “cái ko” đó làm nổi trội lên “cái có” vô giá tiềm tàng trong con người Cần Giuộc. Bởi họ có ý thức quyết tâm đánh giặc, có một ý thức yêu nước ko đổi, có một lòng căm thù giặc tới vô cùng. Điều đó đã làm nên sức mạnh vô song để họ đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như ko, ko sợ đạn to đạn nhỏ nhưng mà liều mình xông vào như chẳng có, rồi kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho quân giặc sợ hãi. Giọng điệu hào hùng, sục sôi qua cách ngắt nhịp, nhịp độ gấp, dồn dập cùng với những động từ mạnh “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược” và một giọng văn gang thép, hùng tráng để trình bày cái hiên ngang, quật cường với thái độ căm thù giặc như muốn ăn gan, uống máu quân thù.
Niềm tiếc thương của thi sĩ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được trình bày bằng cụm từ mở đầu “Khá thương thay” ở đoạn ba. Sang đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện bộc bạch lòng xót thương và lời nguyện cầu của người đứng tế. Giọng điệu bi người nào trùng xuống tới thống thiết đau buồn. Tác giả thương xót cho những người dân phải chịu thương chịu khó, chịu khổ “ăn tuyết nằm sương” làm “xiêu mưa ngã gió”. Ông khẳng định ý chí quyết tâm của dân tộc thà “về theo tổ phụ cũng vinh” chứ chẳng chịu khom lưng uốn gối làm nô lệ. Đằng sau tiếng khóc lớn, tiếng khóc ròng xót thương là mong muốn, ước nguyện của tác giả. Ông mong cho quốc gia được thái hoà, thường dân thoát cảnh lầm than cùng cực, mong cho dân tộc sạch bóng quân thù. Dù bị mù ko thể ra trận chinh chiến nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn cùng với các lãnh tụ nghĩa quân họp bàn bày mưu đánh giặc. Tới lúc giặc xâm chiếm Nam Kì ông ở lại Ba Tri chúng ra sức dụ dỗ, sắm chuộc ông nhưng con người trung kiên đó khí khái khước từ, giữ trọn tấm lòng son với dân tộc.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bài văn thành công nhất cho thể loại văn tế của Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn đã có những đóng góp mới mẻ nền văn học dân tộc cùng với nghệ thuật đắt giá được sử dụng tài tình. Thứ nhất những đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần trước tiên đi vào trong văn học với những nét thuần phác nhất có điệu bộ, dáng dấp, tính cách, xúc cảm và tình cảm rõ ràng. Đề tài gắn liền với thực tiễn mang tính thời sự lúc bấy giờ của quốc gia. Đáng chú ý là sự chuyển biến của tư tưởng trung quân theo hướng ngày càng tăng chất hiện thực, cắt bớt “khẩu khí” lí tưởng. Tác phẩm đã đưa văn học thời đoạn này trở thành vũ khí đấu tranh chống quân thù, chống tư tưởng đầu hàng và bọn phản động tay sai bán nước. Thứ hai là những thủ pháp nghệ thuật đắt giá được sử dụng thành công. Bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật có vần, có độc vận. Từ ngữ biểu cảm trực tiếp, gọi tên các trạng thái nhiều chủng loại như buồn thương, sầu tủi lúc thì tự hào. Hệ thống các từ láy gợi hình gợi cảm được dùng linh hoạt: Cui cút, leo lét, não nùng, dật dờ. Ngôn ngữ bình dị, đậm màu sắc thôn quê của vùng đất Nam Bộ: Cui cút, vấy vá, rơm con cúi, dao phay. Liên kết tài tình những điển tích điển cố, ước lệ tượng trưng như: Tiếng phong hạc, mùi tinh rán, mối xa thư, chém rắn đuổi hươu. Nghệ thuật tiểu đối đặc trưng của thể loại văn tế được trình bày rõ nét qua các câu văn cùng với kết cấu tiếng nói phủ định trùng điệp: “Nào đợi/ chẳng thèm/ nào phải/ chẳng qua/chẳng đợi/ko chờ…” nghệ thuật tương phản hai cấp độ được sử dụng thành công là “Hỏa mai…gươm đeo…/ Chi nhọc quan quản chẳng sợ thằng Tây…/ Kẻ đâm ngang bọn hè trước…súng nổ.” Giọng điệu linh hoạt lúc thì hùng oai, sục sôi lúc diễn tả cái hiên ngang, lúc thì bi người nào, thống thiết lúc nói về sự mất mát, đau buồn.
Chính những điều đó đã khắc họa được hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc những con người quả cảm dám hy sinh vì nghĩa lớn với một lòng nồng nàn yêu nước “Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Tinh thần đó, con người đó trở thành hình tượng đẹp, đáng nể sợ và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu như trước lúc thực dân Pháp xâm lược thơ văn của Đồ Chiểu chủ yếu là thể loại truyện thơ dài với nhân vật tiêu biểu là Lục Vân Tiên để truyền bá đạo lí và tư tưởng làm người thì ở thời đoạn sau năm 1858 thơ văn Đồ Chiểu là lá cờ đầu cho văn thơ chống Pháp đầu thế kỉ XIX, khích lệ lòng yêu nước. Bài văn tế đã góp phần để Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng thực sự tỏa sáng theo cách của riêng mình trong bầu trời văn nghệ của dân tộc.
6. Bài cảm nhận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa đã đứng dậy chống Pháp và lựa chọn cho mình một cái mệnh chung oanh liệt: “thác nhưng mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác nhưng mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn thuở người nào cũng mộ”. Có thể nói, bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” theo như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua, cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Cần Giuộc đã đi vào thất bại. Họ phải ngã xuống giữa những chiến trường trong cảnh da ngựa bọc thây, xác phàm vội bỏ. Họ là những người thất thế, quả thực là tương tự. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho họ sống lại trong những hình tượng mang đầy khí phách và hiên ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao đã hiển hiện trong bài văn tế với âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân Cần Giuộc chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm cui cút làm ăn, toan lo nghèo túng, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung… Đấy thế nhưng mà lúc giặt tới, họ liền trở thành những người dũng sĩ. Ở họ, thi sĩ nhấn mạnh ý thức hoàn toàn tự nguyện, tự giác tham gia đánh giặc: “Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Trong lúc triều đình nhu nhược, chỉ bàn những kẻ nhượng bộ, đầu hàng quân giặc thì họ đã tự mình đứng dậy. Tinh thần: mến nghĩa làm quân chiêu tập của những người nông dân thật là đáng khâm phục. Cuộc tranh đấu của họ rất nhiều khó khăn với những gian nan: lực lượng địch, lực lượng ta quá chênh lệch, thiếu kĩ thuật quân sự, thiếu quân trang, vũ khí. Đoàn nghĩa quân nông dân lại rất nghèo khổ, lam lũ. Họ gần như đi thẳng tới chiến trường từ những túp lều tranh rách nát và những luống cày thân thuộc, ko mũ nón, ko giáp trụ và cũng chẳng gươm giáo cung tên…
Tất cả trang bị của họ đều rất thô sơ, là những đồ dùng thường nhật, thân thuộc nhưng lại làm cho quân thù thích điên bát đảo. Sức mạnh của họ ko chỉ là sức mạnh thể lực nhưng mà đó còn là sức mạnh ý thức. Họ đã lấy danh vàng đỏ với đạo, lấy lòng dũng cảm để chống lại những chiếc tàu sắt, tàu đồng.
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đèn xì, muốn ra cắn cổ”
Lòng căm thù giặc đó đã mang lại cho những người nghĩa sĩ sự dũng cảm và sức mạnh tới phi thường. Họ tả xung hữu đột, vẫy vùng ngang dọc như ở chỗ ko người.
Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn đầy trang trọng, xinh xắn. Nhưng ông lại ko thể che dấu sự thực đau lòng… Bài văn tế còn là đời bi đát, là tiếng khóc của ông trước sự thất thế và cái chết của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ làm cho những người đọc chúng ta cảm thấy đau lòng. Đất trời, cỏ cây cũng phải rung động:
“Đoái trông Cần Giuộc; cỏ cây mấy dặm sầu giăng, nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.”
Đó còn là tiếng khóc của chính tác giả:
“Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm, đồn Lang Sa một khách đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.”
Cái bi bao trùm lên cả đoạn văn, nhưng đại bi ở đây ko phải là bi thương nhưng mà là bi tráng. Đây là nỗi đớn đau vì nước nhà, vì nhân dân. Đau nhưng mà ko làm cho người ta nản lòng thối chí, bi nhưng mà hối thúc mọi người đứng dậy, hiên ngang chống lại quân thù. Cuộc khởi nghĩa tuy đã thất bại, nhiều người đã phải ngã xuống nhưng chết vinh còn hơn sống nhục. Họ đã để lại danh thơm muôn thuở. Ra đi như những tấm gương sáng, trái lại vẫn còn sống mãi và có sức động viên lớn đối với trận đánh sau này…
7. Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
Các bạn tham khảo theo đường link bên dưới:
- Top 8 mẫu Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
8. Cảm nhận 15 câu đầu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Có thể nhận định rằng, tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tượng đài nghệ thuật về những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Đặc thù chúng ta cảm thu được rõ nhất vẻ đẹp của những người nông dân đó trong 15 câu thơ đầu.
Mở đầu bài thơ là tiếng than “Hỡi ơi!”, đó chính là tiếng khóc cất lên giữa đất trời, khóc cho vong linh của những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, sống quả cảm, chết vẻ vang. “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”, câu thơ thứ nhất này tuy ngắn gọn nhưng đã nói chung được hoàn cảnh lịch sử quốc gia ta lúc bấy giờ: Giặc xâm lược có vũ khí hiện đại, công phá dữ dội, súng nổ rền vang cả mặt đất. Còn ta chỉ có tấm lòng và ý chí quyết tâm giữ nước của nhân dân. Câu thơ thứ hai, thi sĩ đã thẩm định người nghĩa sĩ nông dân qua hai gia đoạn cuộc đời của họ: mười năm có công vỡ ruộng chưa chắc đã nổi danh, nhưng chỉ sau một trận đánh tây, tuy phải hi sinh nhưng tiếng tăm vang như mõ.
Tiếp theo, hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân đã được trình bày qua hồi ức của thi sĩ. Họ vốn xuất thân là những người nông dân lam lũ, “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo túng”, có thể thấy tác giả Đồ Chiểu rất thương yêu đối với kiếp người nhỏ nhoi, cùng khổ đó, dù họ có cui cút, hì hụi làm ăn nhưng vẫn nghèo đói. Rồi họ là những người thuần nông, chất phác, ngoài những việc đồng áng, họ chẳng biết tới việc gì khác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ” ko gian sinh hoạt và làm việc của họ chỉ thu gọn lại trong ngôi làng, quanh quẩn và nhỏ nhỏ. Những công việc “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy”, bao nhiêu công việc luôn tay chân và họ đã quen hàng ngày, còn những chuyện “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ” lại chưa từng biết tới. Nhà thơ đã nhấn mạnh tới thực chất của những người nông dân nghèo khổ, họ ko hề biết tới việc quân việc lính hay mặt trận đao binh, họ chỉ phấn đấu lo cho khỏi đói khổ, rách rưới.
Thế rồi giặc tới, suốt ba năm chịu khổ, họ đã đứng lên, trở thành những người hùng nghĩa sĩ cứu nước, “Tiếng phong hạc” trình bày cho sự hoảng sợ trước tấn công của quân thù, vua và quan quân triều đình e sợ, người nông dân chịu cảnh khổ, chỉ biết “phập phồng” trông mong vào bậc quan quân của mình. Thế nhưng trông mong trong mòn mỏi, lòng căm thù bọn giặc cướp nước đã rực lửa, hừng hực trong con người họ. Lúc đầu họ chỉ căm ghét chúng như loài dị tộc tanh hôi “mùi tinh rán vấy vá”, ghét chúng như người nông dân “ghét cỏ” trên ruộng lúa của mình.
Nhưng rồi cứ thế ngày ngày giặc thù xuất hiện ngang nhiên như đâm vào mắt “bòng bong che”, người nông dân lúc đó chỉ còn thấy nhức nhối và gay gắt, căm thù mãnh liệt “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Tuy nhiên, sự căm thù đẩy lên tới đỉnh điểm lúc nhắm tới một điều hết sức cao cả, thiêng liêng, đó là sự tự do và thống nhất của dân tộc, trách nhiệm trước công lí, chính nghĩa. Sự giả dối, mặt nạ nhân dạo “khai hóa”, “tuyên giáo” của thực dân Pháp đã bị vạch trần, dã tâm của chúng đã được phơi bày. Từ đó người nông dân đã tự nguyện ra đánh giặc, và họ đã trở thành nghĩa sĩ:
“Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng người nào thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Câu thơ trình bày khí thế hào sảng và hăm hở, hùng dũng của người dân quân mộ nghĩa. Một lần nữa, thi sĩ lại nhắc lại tới xuất xứ của họ, họ là người “dân ấp dân lân”, bước vào tranh đấu nhưng ko được tập luyện hay sẵn sàng gì cả, những hiểu biết tối thiểu về kĩ thuật tác chiến cũng ko hay biết “Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn”, “Chín chục binh thư ko chờ bày bố”. Tuy họ ko có kĩ thuật, ko có võ nghệ và ko được tập tành nhưng họ lại rất chủ động “ko chờ”, “ko nài” nhưng mà đánh giặc, tự trang bị cho mình một cách thô sơ nhất “manh áo vải”, vũ khí là “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”. Hai câu thơ 14 và 15 đã trình bày một cách rất sống động và chân thực hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong phút chốc công đồn:
“Chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như ko…
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”
Câu văn với nhiều động từ, giới từ, đã tạo nên một ko khí hết sức căng thẳng, quyết liệt, người nghĩa sĩ lao trong mưa đạn của quân thù như cơn cuồng phong bão táp, khinh thường súng đạn tối tân, sát thương mạnh của quân thù. Họ xông xáo và lập nhiều chiến công vẻ vang.
Như vậy, qua 15 câu thơ đầu trong bài văn, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ lam lũ nhưng mà cao đẹp, chất phác và lớn lao. Đại diện cho hình tượng người nông dân trong lịch sử văn học yêu nước của Việt Nam.
9. Phân tích hình ảnh người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc thâm thúy. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều thảm kịch khổ cực và xấu số. Có nhẽ vì vậy nhưng mà hơn người nào hết ông càng cảm thu được nỗi đau mất nước lúc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau lúc chiếm được thành Gia Định chúng mở đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng phụ cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn tới. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa quân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần vũ Gia Định ủy quyền Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận hôm mai 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế ko những trình bày được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ Cần Giuộc nhưng mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng nhưng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ..
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp quốc gia đều rền vang tiếng súng. Chính sự từ nguy nan, đau thương đó, tình yêu quốc gia của những người nông dân phổ biến mới được trình bày, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bộc bạch cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được trình bày một cách rõ rệt và thâm thúy hơn lúc tác giả đã liên tục dùng giải pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi toan lo ” miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nông dân: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết tới “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen mặt trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà nhưng mà đứng lên đánh giặc.
Khi nhưng mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ trông ngóng mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”.
Thì ra cái thảm kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, ko hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì ko thể kiềm chế:
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ.
… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu quốc gia tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã làm cho họ trở thành xinh xắn, nhấp nhánh.
Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã trở thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân lúc phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên tranh đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, đó là nét đẹp thực chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tới đây ko chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn nhưng mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực ý thức tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử nhưng mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố nhưng mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm làm cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như nhập vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đương đầu với quân thù vững mạnh với ” đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quân xâm lược nhà nghề, vậy nhưng mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có ” dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối nghịch với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thực phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã đó. Tấn thảm kịch này đã đưa tới cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn thảm kịch này nhưng mà đã làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên được bản người hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự nguy hiểm, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh tranh đấu, họ vẫn quyết đấu và quyết thắng, lấy ý thức xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với quân thù. Hoàn cảnh tranh đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ tranh đấu bằng chính tỉnh thần sự quyết đấu ko sợ hi sinh nên hiệu quả tranh đấu lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, ý thức dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng nhưng mà bi tráng, tượng trưng cho ý thức yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của ông cha ta. Bức tượng đài đó là dấu mốc trình bày cả một thảm kịch lớn của dân tộc – thảm kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái thảm kịch lớn đó, ý thức quật cường của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc – họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
10. Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài hoa lúc đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văn học nhưng mà trong suốt các thời kì qua chưa được nhắc tới thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong bài văn tế, hình ảnh người nông dân được khắc hoạ rõ ràng.Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, siêng năng lao động. Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết ko đội trời chung với giặc lúc thực dân Pháp xâm lược. Họ đã quả cảm tranh đấu và quả cảm hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng ko hề rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, lúc thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau lúc chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp mở đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng phụ cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ nhưng mà là nông dân, vì quá phẫn nộ kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên tranh đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, xoá sổ được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần vũ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc“, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Như chúng ta biết thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “Tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật đó: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi người nào. Hùng tráng ở nội dung tranh đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất người hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của quốc gia và dân tộc.
Mở đầu bài văn tế là Hai tiếng “Hỡi ơi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của thi sĩ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý tức là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu nhưng mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “cui cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, siêng năng là chịu thương chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng”
Cui cút làm ăn: có tức là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mỏi mệt hay vất vả thì họ vẫn thầm lặng, lặng lẽ chịu đựnng một mình nhưng mà chẳng nói với người nào .”Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng” đã hiện lên đầy đủ một vòng đời ko lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. Khởi đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo túng. Họ là những người nông dân nhưng mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết tới cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
“Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống thân thiện quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng lúc quốc gia quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn đó đã đứng lên tự nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng nhưng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn nhưng mà họ “mến” là theo đuổi
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế nhưng mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Bài Văn tế đã tái tạo lại những giờ phút giao tranh tàn khốc của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như ko; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Không khí mặt trận có tiếng trống thúc quân hối thúc, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như ko, tấn công như vũ bão, vẫy vùng giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm ý thức dũng cảm, kiên cường quật cường của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.Ông cũng trình bày rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân. Từ trước tới nay, đây là tác phẩm trước tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông mong con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về ngh thống thiết, bi người nào. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người người hùng:
“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”
Tổ quốc, quê hương vô cùng tiếc thương. Một ko gian rông lớn ngậm ngùi, đau. đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đớn đau của người vợ trẻ, nỗi thương nhớ của con cái được nói tới vô cùng xúc động:
“Đớn đau bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Các nghĩa sĩ đã sống quả cảm tranh đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương tranh đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng quốc gia nào cũng là độc lập, tự chủ. Không người nào được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:
“Ôi!
Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu nhưng mà họ đã để lại. Thà chết vinh còn hơn sống nhục. Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo nhưng mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, vong linh theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời kiếp kiếp nằm trong lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dung, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc.
“Nước mắt người hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định , tấm lòng mến thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.”Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và hàm ơn thâm thúy của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã quả cảm tranh đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc nhưng mà đối với họ “nó”rất quan trọng trong cuộc đời.Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về ý thức dũng cảm, lòng yêu nước thâm thúy để cho các thế hệ đi sau lúc đọc được bài văn Tế này nhưng mà noi theo để xây dựng quốc gia càng ngày giàu mạnh hơn.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên phân mục Tài liệu của Thư Viện Hỏi Đáp VN.
.
Thông tin thêm
Top 10 bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc siêu hay
[rule_3_plain]
[rule_3_plain]
Phân tích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc là một trong những dạng bài thường gặp trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Nhằm giúp các bạn học trò hiểu rõ hơn về hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Hoatieu xin san sớt một số mẫu bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cụ thể nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
Top 6 bài phân tích Câu cá mùa thu
Phân tích Việt Bắc hay nhất
6 bài phân tích Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn tế được tác giả Nguyễn Đình Chiểu sáng tác để ngợi ca, tiếc thương và kính phục những nghĩa quân đã quả cảm đứng lên chống thực dân Pháp tại Cần Giuộc vào năm 1861. Qua bài văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc, người đọc có thể thấy được những người chiến sĩ áo vải can trường, quật cường chỉ là những người nông dân nghèo khổ nhưng họ đã quả cảm đứng lên để đấu tranh lúc thực dân Pháp sang xâm lược. Trong bài viết này Hoatieu xin san sớt một số bài văn mẫu phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
I. Mở bài
– Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu: một tác giả mù nhưng tư cách vô cùng cao đẹp, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc và “càng nhìn càng thấy sáng” (Phạm Văn Đồng)
– Đôi nét về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng lớn lao của dân tộc
II. Thân bài
1. Phần lung khởi: nói chung bối cảnh thời đại và lời khẳng định sự bất tử của người nông dân nghĩa sĩ
+ “Hỡi ơi!”: Câu cảm thán trình bày niềm tiếc thương thật tâm, thiết tha, tiếc thương
+ “Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân
+ “Lòng dân trời tỏ”: đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương quốc gia ➨ Trời chứng giám
Nghệ thuật đối lập nhằm trình bày quang cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính trị lớn lao.
➨ Lời khẳng định tuy thất bại, những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi.
2. Phần thích thực: Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc
a. Nguồn gốc xuất thân
– Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê tới khai phá đất mới để kiếm sống)
+ “cui cút làm ăn”: hoàn cảnh sống lẻ loi, thiếu người nương tựa
– Nghệ thuật tương phản “chưa quen – chỉ biết, vốn quen – chưa biết.
➨ Tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người người hùng.
b. Lòng yêu nước nồng nàn
Khi thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ➨ trông mong tin quan ➨ ghét ➨ căm thù ➨ đứng lên chống lại.➨ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ
– Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù tới tột độ
– Nhận thức về tổ quốc: Họ ko dung thứ những quân thù lừa dối, bịp bợm ➨ họ tranh đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi người nào bắt…”
c. Tinh thần tranh đấu hi sinh của người nông dân
– Tinh thần tranh đấu tuyệt vời: Vốn ko phải lính diễn binh, chỉ là dân ấp dân lân nhưng mà “mến nghĩa làm quân chiêu tập”
– Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử.
– Lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ”
– “đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi.
➨ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
3. Phần Ai vãn: Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ
– Sự hi sinh của những người nông dân được nói tới một cách hình ảnh với niềm tiếc thương thật tâm
– Hình ảnh gia đình: tang thương, lẻ loi, chia li, gợi ko khí đau thương, buồn phiền sau trận đánh.
– Sự hi sinh của những người nông dân nghĩa sĩ để lại xót thương đớn đau cho tác giả, gia đình thân quyến, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả nước
➨ Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử
➨ Văn pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi ko khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết của nghĩa quân.
4. Phần kết: ngợi ca vong linh bất tử của người nghĩa sĩ
– Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm còn lưu mãi
– Ông cũng nêu cao ý thức tranh đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân
– Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người người hùng thất thế.
➨ Khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.
III. Kết bài
– Khái quát những nét rực rỡ tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tác phẩm.
– Trình bày suy nghĩ bản thân.
2. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 1
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc như một “bức tượng đài nghệ thuật sừng sững hiên ngang” nhưng mà lạ thay gót thời kì ko hề tàn phá nổi. Nguyễn Đình Chiểu – con người đó đã đi xa chúng ta từ lâu lắm rồi nhưng những áng văn thơ của người còn trẻ mãi, đỏ mãi.
Hỡi ơi
Súng giặc tới rền Lòng dân trời tỏ.
Câu thơ tứ tự mở đầu tách đôi ra làm hai vế gãy gọn nhưng sức nói chung của nó thật lớn. Chỉ ngần đó câu chữ đã vẽ lên một cách, toàn diện về những điều nhưng mà người viết muôn gửi gắm: tội ác và nghĩa cả, cái đau thương tang thương và cái cao lớn xinh xắn, một bên là súng giặc tranh chấp với lòng dân.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn nhưng mà danh nổi tợ pha
Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất nhưng mà tiếng vang như mỏ.
Đã rõ hơn rồi, tác giả muốn nói điều gì. Câu thơ phản ánh sự tương phản, giữa “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây” – sức vùng lên mạnh mẽ, quyết liệt, nhanh lẹ của những người nông dân. Mười năm vỡ ruộng ít người nào biết tới, thế nhưng mà một trận nghĩa đánh Tây, những con người nghĩa sĩ đã gây được “tiếng vang như mỏ”. Tứ thơ như báo trước cái người hùng của họ, sức mạnh của họ và cả cái bi thương thế tất nữa.
Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn
Riêng lo nghèo túng.
Hình ảnh những con người phổ biến hiện lên, những con người sẽ làm nên lịch sử đó, họ chẳng phải là người nào cả, chỉ là những con người sống sau lũy tre làng, sau rặng dừa, bụi chuối vì nghĩa lớn nhưng mà hi sinh. Họ hi sinh lúc “Tổ quốc cần”. Và hình ảnh của họ trở thành cao đẹp từ đó. Họ chỉ là những người quen lấm láp với công việc cấy cày.
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng, chỉ biết:
Ruộng trâu ở trong làng bộ.
Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.
Cuộc sống của họ lặng thầm, ngày ngày chỉ biết lăn lộn cùng miếng cơm manh áo nhưng cuộc sống nghèo nàn vẫn ghì sát đất. Họ chưa bao giờ tưởng tượng nổi việc binh đao. Lần đầu nghe tin giặc Pháp giày xéo họ cũng có tâm lí chung của những người “thường dân” “con đỏ”, lo sợ, trông đợi rồi thất vọng.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng Trông tin quan như trời hạn trông mưa Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm Ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ. Chờ mong “tin sương” nhưng rồi nhạn vắng bóng. Họ đi từ thắc thỏm hi vọng tới vô vọng, từ lo sợ, hoảng sợ tới căm ghét – cái căm ghét trong mơ hồ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.
Cho dù sự căm ghét chỉ được phôi thai qua ý niệm mơ hồ nhưng sự phẫn nộ đã dâng lên ngùn ngụt. Họ muốn lao ra bằng tay ko để “ăn tươi nuốt tươi kẻ đã gây bao tội ác”. Đọc tới đây, ta chợt nhớ lại lời hịch sang sảng, vang vọng một thời của Trần Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” (Hịch tướng sĩ). Sự day dứt, đớn đau vò xé tâm can thôi thúc con người hành động, thôi thúc con người muốn “nuốt gan uống máu quân thù” cho hả dạ. ở Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc cũng vậy. Họ mở đầu nghĩ tới non sông quốc gia và cảm thấy nhục nhã nếu như cứ để cho lũ “chó má” đó giày xéo lên những trị giá ý thức của dân tộc nghìn thu văn hiến.
Một mối xa thư khổng lồ, há để người nào chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Ý thức được như thế, họ đã đi tới quyết tâm làm một cuộc nổi dậy. Họ vùng lên ý thức sẵn sàng tự nguyện.
Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Họ đã tưởng tượng ra một trận đánh tranh chính nghĩa. Họ chẳng cần phải trốn tránh lúc tiếng gọi của quê hương tha thiết tới thế. Họ biết phải tranh đấu, xả thân để giữ lấy bờ ao bụi chuối, giữ lấy mảnh đất biết mấy thân yêu gắn bó, giữ lấy những điều thiêng liêng nhưng mà họ cho là không phù hợp gì tới “ông cha nó” cả. Hình ảnh của họ thật đẹp, những tấm lòng của họ thật cao cả. Hình ảnh đó thật khác xa với người lính trước kia lúc phải đương đầu với tiếng trống giục quân bắt bớ “bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”.
Người nghĩa sĩ của Nguyễn Đình Chiểu bước vào trận đánh đấu vẫn mang một màu bình dị sáng trong. Họ là những người “dân ấp dân lân” với những vũ khí thô sơ, chỉ là một ngọn tầm vông, một nùi rơm, con cúi, thế nhưng họ đã dệt nên những trang sử hào hùng, vẻ vang. Họ thật cao đẹp, thật người hùng và tràn đầy dũng khí. Bên trong “manh áo chật” đáng thương, nhỏ nhỏ lại chứa đựng bao điều lớn lao, cao cả.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng hằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ.
Họ là những con người bình dị nhưng người hùng. Khi cầm cuốc làm ruộng họ là những con người hiền như đất, như khoai song lúc đương đầu với quân thù, họ ko kém phần dữ tợn. Họ hòa hợp bằng ý thức kết đoàn của người dân áo vải đất Việt. Cái ý thức kết đoàn nhưng mà trước đây Nguyễn Trãi từng ngợi ca trong Cáo bình Ngô.
Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phơi phới.
Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ lên hình ảnh của họ – của những con người cụ thể trong công cuộc đánh Tây bằng một tâm trạng nô nức, phấn khởi.
Chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như ko
Nào đợi thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu sung sướng vung lên như một thanh gươm trên chiến trường trước sức mạnh ồ ạt, tấn công dồn dập như vũ bão của những người nghĩa sĩ. Cách ngắt nhịp ngắn gọn đã tạo nên một khí thế xông trận bừng bừng, mang hơi thở gấp gáp của cuộc hỗn chiến. Trong quang cảnh đó, vẫy vùng giữa chiến địa chỉ còn có người nông dân mộ nghĩa quả cảm, uy phong lẫm liệt. Giọng thơ có khác nào hồn cáo của Nguyễn Trãi mấy trăm năm về trước.
Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh chiến bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn
Nguyễn Đình Chiểu có nhẽ cũng muốn lắm, để viết được những sự thất bại chồng chất của quân thù. Nhưng ở đây ta thấy trận đánh dù có rần rộ tới đâu đi nữa nó cũng mang tính chất của người dân cầm cuốc, cầm cày đã quen. Họ thất bại là phải, bởi lẽ:
Mười ban võnghệ nào đợi tập rèn
Chín chục trận binh thư ko chờ bày bố.
Đấy là những cơn người người hùng nhưng rất đáng thương. Nhìn hoàn cảnh đánh giặc của họ, người nào nhưng mà ko xót xa cho những con người cụ thể và xót xa cho cả toàn quốc gia. Cho nên âm điệu thơ như mặt hồ đang nổi sóng bỗng dưng lắng xuống, đang hừng hực lửa mặt trận bỗng chốc trở thành hoang vắng lạnh lùng, mang màu sắc bi thương não nuột.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ …
Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Những câu thơ như câm lặng trôi trong niềm kí ức của tác giả. Nhà thơ gửi một nỗi tiếc thương vô hạn cho những người đã khuất. Cái chết của họ làm cho cả trời đất, cây cối tang thương, nhỏ lệ, cái chết nhuốm màu sầu cửa ải lên vạn vật. Cả một bầu trời âm u, tối tăm trước sự hi sinh mất mát của những người nghĩa sĩ.
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.
Đồng lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đớn đau bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Những hình ảnh thương tâm đó gặm nhấm tâm can ta, vong linh ta đau nhức. Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử nhưng mà cất tiếng khóc cho những người người hùng hi sinh vì Tổ quốc. Từ những âm thanh thảm sầu vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta ko phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình nhưng mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của quốc gia. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu đã tụ hội lại mọi nỗi đau để cất lên tiếng khóc cao cả.
Sau phút giây đau thương, nức nở, lời ván đang đắm chìm trong thảm đạm bỗng tỉnh táo hẳn lên, nêu bật một quan niệm tuyệt vời về nhân sinh, về lẽ sống và cái chết.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn thờ, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác nhưng mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.
Hơn còn nhưng mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.
Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra một ý kiến mang tính nhân văn thâm thúy: Thà chết chứ nhất mực ko chịu làm nô lệ, làm những điều nhơ bẩn, ô danh. Câu thơ “sống đánh giặc thác cũng đánh giặc” dược nêu cao như một chân lí sống rực rỡ, chói ngời. Chân lí đó đã xua tan bao cảm giác bi thương, mất mát của người nghĩa sĩ đã dâng trọn tấm thân mình cho quốc gia, quê hương.
Thác nhưng mà trả nước non rồi nợ, sánh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen.
Thác nhưng mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn thuở người nào cũng mộ.
Họ là những tấm gương sáng cho muôn thuở con cháu tương lai. Linh hồn người nghĩa sĩ trong tưởng vọng thành kính của tác giả vẫn níu lấy cuộc sống để theo đuổi tới cùng sự nghiệp làm thịt giặc cứu nước, Với Nguyễn Đình Chiểu, họ vẫn sống và được ngưỡng mộ.
Ôi chết thế ko thể nào chết được
Không thể chết những người dân yêu nước
Những con người ko chịu ô danh.
(Tố Hữu)
Họ đã vui vẻ hoàn thành nghĩa cả cao đẹp như một người nông dân “cày xong thửa ruộng”. Cái chết của họ như một giấc ngủ trưa yên lành, mặc nhiên. Nhưng cái yên lành, mặc nhiên đó lại gợi nỗi đau nhức nhối trong tâm tưởng của bao kiếp người.
Với lối văn bình dân, giản dị, dùng nhiều thành ngữ, lời ăn tiếng nói đời thường, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa hùng tráng. Qua “Bức tượng đài nghệ thuật” đó tác giả gửi gắm một quan niệm sống tốt đẹp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu tình dân, nghĩa nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã khép lại nhưng lịch sử dân tộc vẫn được mở ra. Và chúng ta – những người con của quốc gia phải nhớ giữ lấy trị giá nghìn đời nhưng mà bao thế hệ, bao lớp người từng xây dựng nên giang sơn, gấm vóc của ngày hôm nay. Điều nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm đã xúc động viết lên những lời thơ xiết bao ân nghĩa.
Có biết bao người con gái đàn ông
Trong bốn nghìn lớp người giống ta thế hệ
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.
(Đất Nước)
3. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc thâm thúy. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều thảm kịch khổ cực và xấu số. Có nhẽ vì vậy nhưng mà hơn người nào hết ông càng cảm thu được nỗi đau mất nước lúc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau lúc chiếm được thành Gia Định chúng mở đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng phụ cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn tới. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa quân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần vũ Gia Định ủy quyền Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận hôm mai 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế ko những trình bày được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần Giuộc nhưng mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng nhưng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp quốc gia đều rền vang tiếng súng. Chính từ sự nguy nan, đau thương đó, tình yêu quốc gia của những người nông dân phổ biến mới được trình bày, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bộc bạch cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được trình bày một cách rõ rệt và thâm thúy hơn lúc tác giả đã liên tục dùng giải pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.
Nhớ lính xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó…
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi toan lo “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nông dân: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết tới “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen mặt trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà nhưng mà đứng lên đánh giặc.
Khi nhưng mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ trông ngóng mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”.
Thì ra cái thảm kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, ko hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì ko thể kiềm chế:
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ.… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu quốc gia tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã làm cho họ trở thành xinh xắn, nhấp nhánh. Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã trở thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân lúc phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên tranh đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, đó là nét đẹp thực chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tới đây ko chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn nhưng mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực ý thức tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử nhưng mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố nhưng mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm làm cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như nhập vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đương đầu với quân thù vững mạnh với “đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quân xâm lược nhà nghề, vậy nhưng mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối nghịch với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thực phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã đó. Tấn thảm kịch này đã đưa tới cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn thảm kịch này nhưng mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên được bản người hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự nguy hiểm, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh tranh đấu, họ vẫn quyết đấu và quyết thắng, lấy ý thức xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với quân thù. Hoàn cảnh tranh đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ tranh đấu bằng chinh ý thức sự quyết đấu ko sợ hi sinh nên hiệu quả tranh đấu lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh..
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, ý thức dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Xúc cảm chủ đạo của bài Văn tế là xúc cảm bi tráng, lời văn rắn rỏi, âm điệu sục sôi, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy hiệu quả cao nhất của nó. Tất cả hợp thành một âm hưởng mặt trận hào hùng, phấn khích của một thiên người hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân, với những tư tưởng cực kì lớn lao nhưng mà tác giả đã phát xuất hiện trong hành động tự nguyện làm thịt giặc cứu nước của họ.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng nhưng mà bi tráng, tượng trưng cho ý thức yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của ông cha ta. Bức tượng đài đó là dấu mốc trình bày cả một thảm kịch lớn của dân tộc – thảm kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái thảm kịch lớn đó, ý thức quật cường của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ cần Giuộc họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
4. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu là thi sĩ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học Trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác khổng lồ, trình bày lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước thâm thúy. Trong hệ thống tác phẩm đó ta ko thể ko nhắc tới Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị làm thịt chết. Bấy giờ, tuần vũ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã thảm sát biết bao người dân Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh đó đã thử thách tấm lòng của con người đối với quốc gia. Người dân Nam Bộ đã ko nể nang sống chết, đem thân mình tranh đấu chống lại quân thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mệnh) để đổi lại tiếng tăm, tiếng thơm lưu truyền với muôn thuở. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng quả cảm kiên cường. Trước lúc giặc ngoại xâm tới họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác, họ sống cuộc đời bình dị, “cui cút làm ăn” với biết bao toan lo, bộn bề của cuộc sống. Họ chỉ biết tới nơi làng quê nghèo, nhưng mà chưa từng biết tới toàn cầu ngoài kia. Quanh năm suốt tháng những người nông dân đó bận rộn với công việc nông dân: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” còn những việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Nhưng lúc giặc xâm lược tới cương vực, tới sự bình yên vốn có, họ sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Trước hết đó là sự chuyển biến trong tình cảm. Họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” – tin giặc tới phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu tranh: “Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, độc ác của quân thù: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Tới lúc này họ đã có những chuyển biến rõ ràng về nhận thức, nếu lúc đầu trong những người nông dân đó vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông mong vào quân đội “như trời hạn trông mưa” thì tới đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về quân thù – những kẻ đi xâm lược thì ko hợp lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân với quốc gia: “Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Sự chủ động của họ thật uy phong, lẫm liệt đầy dũng khí.
Trong trận đánh Tây họ ko được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những đồ vật sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn tầm vông” “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ: “đạn nhỏ đạn to” “tàu đồng súng nổ”. Sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn “Đạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng như ko”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”, “Đâm ngang chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”,… Không hề sợ hãi trước uy thế của quân thù. Bằng việc sử dụng liên tục các động từ mạnh, nhịp độ nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên quang cảnh chiến trường tàn khốc, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, quật cường.
Những vũ khí hiện đại của quân thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, của người thân và của toàn thể non sông dân tộc cho sự hi sinh quả cảm của những con người quả cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số phận của người thân, từ nay sẽ rơi vào vòng nô bộc của quân thù. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm phục thâm thúy tới những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: “Thà thác nhưng mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn nhưng mà chịu chữ đầu Tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ ko chỉ bộc bạch lòng tiếc thương trước những người đã mất nhưng mà còn khẳng định những điều bất tử với thời kì và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai. Bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng ko phải là bi quan, yếu ớt.
Những vần thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trong sự tiếc thương và cảm phục của những người còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc thù trong câu: “Nước mắt người hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiêng dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” vừa trình bày được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất vừa tôn vinh công trạng của họ trong sự so sánh ngầm với triều đình.
Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, thân thiện với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc trưng tiếng nói đậm màu sắc Nam Bộ. Xây dựng hình tượng nghệ thuật – nghĩa sĩ nông dân chân thực, cụ thể, sinh động, lần trước tiên người nông dân được xuất hiện đầy xinh xắn, trang trọng tới vậy. Liên kết hài hoà các cụ thể trình bày tình cảm xúc cảm của người viết, tăng chất trữ tình cho bài văn tế, đồng thời giúp dễ dàng đi vào lòng người đọc.
Bằng tiếng nói giản dị, giàu xúc cảm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bộc bạch lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hi sinh quật cường của họ.
5. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Mẫu 4
“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường…con mắt chúng ta phải chuyên chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng” đó là lời nhận xét của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng dành cho cuộc đời và thơ văn Đồ Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu thi sĩ mù lòa nhưng tâm ông vẫn luôn sáng. Nhắc tới ông người ta ko quên nhắc tới “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại văn tế để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng độc giả. Tác phẩm trình bày lòng hàm ơn, sự xót thương, cảm phục của tác giả dành cho những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc quả cảm, quả cảm quên mình vì nước. Để phân tích bài văn một cách bao quát và lạ mắt nhất ta chọn con mắt nhìn và điểm nhìn từ ý thức yêu nước của người nông dân.
Những người nông dân họ vốn là những con người thuần phác của nông dân nhưng nay vì lòng yêu nước thương nòi, lòng căm thù giặc thâm thúy nhưng mà họ trở thành những chiến binh quả cảm đã hy sinh trong trận chiến rằm tháng 11 năm 1861 _ thời khắc gay cấn của những ngày đầu chống Pháp.
Tại vì sao nhưng mà lại tương tự? Bởi “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” câu tứ tự hai vế tuy ngắn gọn nhưng nói chung được hoàn cảnh, tình thế của quốc gia lúc bấy giờ. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta chúng xâm chiếm, thi hành những chính sách áp bức bóc lột nặng nề đẩy nhân ta vào cảnh lầm than cùng cực. Câu văn trên đã cho ta thấy sự man di của thực dân. Chúng có vũ khí tối tân, sức công phá dữ dội, súng nổ vang rền mặt đất. Điều đó làm cho ta nhớ tới tội ác của giặc Pháp được thi sĩ tố cáo trong bài “Chạy giặc”:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim xáo xác bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Tiếng súng vô tâm vô tình của quân giặc ko bỏ sót một người nào, ko trừ một cảnh vật nào. Tất cả trở thành hoang tàn, xơ xác, lũng loạn sau “tiếng súng Tây”. Giặc thì tương tự chúng hiện đại hơn ta rất nhiều về trang thiết bị, về vật chất, số lượng lính tráng còn ta chỉ có một tấm lòng, một truyền thống yêu nước mãnh liệt của người nông dân, của những con người Việt Nam. Nghệ thuật tiểu đối được sử dụng rất thành công đối rất chỉnh, rất chuẩn: Mười năm <> một trận, công (vật chất)<> nghĩa (ý thức), chưa ắt còn danh nổi như phao<> tuy là mất tiếng vang như mõ đã khẳng định ý thức quyết tâm đánh giặc, làm nền để người nông dân xuất hiện. Tiếng khóc “hỡi ơi” thân thuộc mở đầu cho bài tế. Tiếng khóc lớn bộc bạch nỗi niềm đau xót, khóc thương cho vong linh của những nghĩa sĩ đã hy sinh oanh liệt.
Nhà thơ đã hồi ức và khắc họa lại hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc những người nông dân thuần phác thôn quê có một ý thức yêu nước quật khởi với cụm từ “Nhớ linh xưa”. Trước tiên họ là con người của ruộng đồng, của nông nghiệp, lam lũ mưu sinh “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo túng” đúng như Hoài Thanh nhận xét “Biết bao mến thương trong một chữ cui cút”. Nhà thơ bộc bạch lòng thương cảm đối với con người hiền lành, dáng dấp vất vả tới tội nghiệp. Họ là những con người chất phác, thuần nông ngoài việc đồng áng “chỉ biết ruộng trâu”, ko gian giao tiếp bó hẹp “ở trong làng bộ” với công việc của nông dân “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Nào họ có biết chi tới việc binh đao, giáo mác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhưng” rồi “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Biết bao cái chưa biết đó thế nhưng mà lúc giặc xâm lược nhũng nhiễu, triều định phản kháng yếu ớt họ dũng cảm bỗng chốc trở thành những người nghĩa sĩ người hùng cứu nước.
Lúc đầu họ cũng trông cũng mong vào sự phản công của triều đình. Nhưng trước bối cảnh nguy nan, triều đình bạc nhược để cho con dân của mình thốt lên “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Điển tích “tiếng phong hạc” lấy ở câu “Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh” để chỉ nỗi lo lắng, bồn chồn, sợ hãi trước sự tấn công hung bạo của quân thù. Là con là dân họ chỉ biết mong đợi vào quan phụ mẫu của mình mong cho quốc gia được bình yên để họ an tâm lập nghiệp nhưng chỉ là mòn mỏi trong kì vọng mươi tháng vời vợi. Và tất nhiên họ ko thể dương con mắt nhìn quốc gia rơi vào tay giặc. Trước đó họ chỉ ghét chúng bởi “mùi tinh rán vấy vá” tức chỉ mùi tanh hôi của giặc Pháp với hình ảnh so sánh rất lạ mắt “ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ”. Đó là một cái lẽ tự nhiên. Cách dùng từ thật sáng giá thích hợp tâm lí và suy nghĩ của người nông dân. Sự căm ghét được đẩy lên mức độ cao hơn lúc “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “Ngày xem ống khói chạy đen sì” nhưng mà “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Sự nhức nhối tới tận cùng, sự căm thù tới tột độ phải tới câu sau mới lên tới đỉnh cao “Một mối xa thư khổng lồ, há để người nào chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Điển tích, điển cố, từ ngữ Hán Việt đặc trưng thành ngữ “treo dê bán chó” được tập trung để trình bày ý chí quyết tâm chống giặc, con mắt tinh tường của nhân dân. Mặt nạ “khai hóa”, “tuyên giáo” của giặc Pháp bị vạch trần phơi bày dã tâm cướp nước ta của chúng.
Truyền thống và ý thức của dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc họ đứng lên đấu tranh với tất cả tấm lòng của người con Việt. Nhà thơ cảm phục trước ý thức và việc làm của họ điều đó đối lập hoàn toàn với thực lực của người nông dân. Họ ko đợi người nào đòi người nào bắt nhưng mà tự nguyện tranh đấu “phen này ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ” hàng loạt các động từ vựng ngữ chỉ hành động trình bày quyết tâm hăm hở, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” tranh đấu lúc trong tay là những đồ vật thô sơ, là những dụng cụ lao động thường nhật của nông dân là manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay… Họ ko phải dòng dõi nhà binh, ko được tập luyện, ko có tổ chức, ko có hiệu lệnh, hàng ngũ, kỷ luật, vũ khí lại thô sơ. Chính những “cái ko” đó làm nổi trội lên “cái có” vô giá tiềm tàng trong con người Cần Giuộc. Bởi họ có ý thức quyết tâm đánh giặc, có một ý thức yêu nước ko đổi, có một lòng căm thù giặc tới vô cùng. Điều đó đã làm nên sức mạnh vô song để họ đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như ko, ko sợ đạn to đạn nhỏ nhưng mà liều mình xông vào như chẳng có, rồi kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho quân giặc sợ hãi. Giọng điệu hào hùng, sục sôi qua cách ngắt nhịp, nhịp độ gấp, dồn dập cùng với những động từ mạnh “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược” và một giọng văn gang thép, hùng tráng để trình bày cái hiên ngang, quật cường với thái độ căm thù giặc như muốn ăn gan, uống máu quân thù.
Niềm tiếc thương của thi sĩ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được trình bày bằng cụm từ mở đầu “Khá thương thay” ở đoạn ba. Sang đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện bộc bạch lòng xót thương và lời nguyện cầu của người đứng tế. Giọng điệu bi người nào trùng xuống tới thống thiết đau buồn. Tác giả thương xót cho những người dân phải chịu thương chịu khó, chịu khổ “ăn tuyết nằm sương” làm “xiêu mưa ngã gió”. Ông khẳng định ý chí quyết tâm của dân tộc thà “về theo tổ phụ cũng vinh” chứ chẳng chịu khom lưng uốn gối làm nô lệ. Đằng sau tiếng khóc lớn, tiếng khóc ròng xót thương là mong muốn, ước nguyện của tác giả. Ông mong cho quốc gia được thái hoà, thường dân thoát cảnh lầm than cùng cực, mong cho dân tộc sạch bóng quân thù. Dù bị mù ko thể ra trận chinh chiến nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn cùng với các lãnh tụ nghĩa quân họp bàn bày mưu đánh giặc. Tới lúc giặc xâm chiếm Nam Kì ông ở lại Ba Tri chúng ra sức dụ dỗ, sắm chuộc ông nhưng con người trung kiên đó khí khái khước từ, giữ trọn tấm lòng son với dân tộc.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bài văn thành công nhất cho thể loại văn tế của Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn đã có những đóng góp mới mẻ nền văn học dân tộc cùng với nghệ thuật đắt giá được sử dụng tài tình. Thứ nhất những đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần trước tiên đi vào trong văn học với những nét thuần phác nhất có điệu bộ, dáng dấp, tính cách, xúc cảm và tình cảm rõ ràng. Đề tài gắn liền với thực tiễn mang tính thời sự lúc bấy giờ của quốc gia. Đáng chú ý là sự chuyển biến của tư tưởng trung quân theo hướng ngày càng tăng chất hiện thực, cắt bớt “khẩu khí” lí tưởng. Tác phẩm đã đưa văn học thời đoạn này trở thành vũ khí đấu tranh chống quân thù, chống tư tưởng đầu hàng và bọn phản động tay sai bán nước. Thứ hai là những thủ pháp nghệ thuật đắt giá được sử dụng thành công. Bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật có vần, có độc vận. Từ ngữ biểu cảm trực tiếp, gọi tên các trạng thái nhiều chủng loại như buồn thương, sầu tủi lúc thì tự hào. Hệ thống các từ láy gợi hình gợi cảm được dùng linh hoạt: Cui cút, leo lét, não nùng, dật dờ. Ngôn ngữ bình dị, đậm màu sắc thôn quê của vùng đất Nam Bộ: Cui cút, vấy vá, rơm con cúi, dao phay. Liên kết tài tình những điển tích điển cố, ước lệ tượng trưng như: Tiếng phong hạc, mùi tinh rán, mối xa thư, chém rắn đuổi hươu. Nghệ thuật tiểu đối đặc trưng của thể loại văn tế được trình bày rõ nét qua các câu văn cùng với kết cấu tiếng nói phủ định trùng điệp: “Nào đợi/ chẳng thèm/ nào phải/ chẳng qua/chẳng đợi/ko chờ…” nghệ thuật tương phản hai cấp độ được sử dụng thành công là “Hỏa mai…gươm đeo…/ Chi nhọc quan quản chẳng sợ thằng Tây…/ Kẻ đâm ngang bọn hè trước…súng nổ.” Giọng điệu linh hoạt lúc thì hùng oai, sục sôi lúc diễn tả cái hiên ngang, lúc thì bi người nào, thống thiết lúc nói về sự mất mát, đau buồn.
Chính những điều đó đã khắc họa được hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc những con người quả cảm dám hy sinh vì nghĩa lớn với một lòng nồng nàn yêu nước “Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Tinh thần đó, con người đó trở thành hình tượng đẹp, đáng nể sợ và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu như trước lúc thực dân Pháp xâm lược thơ văn của Đồ Chiểu chủ yếu là thể loại truyện thơ dài với nhân vật tiêu biểu là Lục Vân Tiên để truyền bá đạo lí và tư tưởng làm người thì ở thời đoạn sau năm 1858 thơ văn Đồ Chiểu là lá cờ đầu cho văn thơ chống Pháp đầu thế kỉ XIX, khích lệ lòng yêu nước. Bài văn tế đã góp phần để Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng thực sự tỏa sáng theo cách của riêng mình trong bầu trời văn nghệ của dân tộc.
6. Bài cảm nhận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa đã đứng dậy chống Pháp và lựa chọn cho mình một cái mệnh chung oanh liệt: “thác nhưng mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác nhưng mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn thuở người nào cũng mộ”. Có thể nói, bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” theo như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua, cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Cần Giuộc đã đi vào thất bại. Họ phải ngã xuống giữa những chiến trường trong cảnh da ngựa bọc thây, xác phàm vội bỏ. Họ là những người thất thế, quả thực là tương tự. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho họ sống lại trong những hình tượng mang đầy khí phách và hiên ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao đã hiển hiện trong bài văn tế với âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân Cần Giuộc chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm cui cút làm ăn, toan lo nghèo túng, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung… Đấy thế nhưng mà lúc giặt tới, họ liền trở thành những người dũng sĩ. Ở họ, thi sĩ nhấn mạnh ý thức hoàn toàn tự nguyện, tự giác tham gia đánh giặc: “Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Trong lúc triều đình nhu nhược, chỉ bàn những kẻ nhượng bộ, đầu hàng quân giặc thì họ đã tự mình đứng dậy. Tinh thần: mến nghĩa làm quân chiêu tập của những người nông dân thật là đáng khâm phục. Cuộc tranh đấu của họ rất nhiều khó khăn với những gian nan: lực lượng địch, lực lượng ta quá chênh lệch, thiếu kĩ thuật quân sự, thiếu quân trang, vũ khí. Đoàn nghĩa quân nông dân lại rất nghèo khổ, lam lũ. Họ gần như đi thẳng tới chiến trường từ những túp lều tranh rách nát và những luống cày thân thuộc, ko mũ nón, ko giáp trụ và cũng chẳng gươm giáo cung tên…
Tất cả trang bị của họ đều rất thô sơ, là những đồ dùng thường nhật, thân thuộc nhưng lại làm cho quân thù thích điên bát đảo. Sức mạnh của họ ko chỉ là sức mạnh thể lực nhưng mà đó còn là sức mạnh ý thức. Họ đã lấy danh vàng đỏ với đạo, lấy lòng dũng cảm để chống lại những chiếc tàu sắt, tàu đồng.
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đèn xì, muốn ra cắn cổ”
Lòng căm thù giặc đó đã mang lại cho những người nghĩa sĩ sự dũng cảm và sức mạnh tới phi thường. Họ tả xung hữu đột, vẫy vùng ngang dọc như ở chỗ ko người.
Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn đầy trang trọng, xinh xắn. Nhưng ông lại ko thể che dấu sự thực đau lòng… Bài văn tế còn là đời bi đát, là tiếng khóc của ông trước sự thất thế và cái chết của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ làm cho những người đọc chúng ta cảm thấy đau lòng. Đất trời, cỏ cây cũng phải rung động:
“Đoái trông Cần Giuộc; cỏ cây mấy dặm sầu giăng, nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.”
Đó còn là tiếng khóc của chính tác giả:
“Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm, đồn Lang Sa một khách đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.”
Cái bi bao trùm lên cả đoạn văn, nhưng đại bi ở đây ko phải là bi thương nhưng mà là bi tráng. Đây là nỗi đớn đau vì nước nhà, vì nhân dân. Đau nhưng mà ko làm cho người ta nản lòng thối chí, bi nhưng mà hối thúc mọi người đứng dậy, hiên ngang chống lại quân thù. Cuộc khởi nghĩa tuy đã thất bại, nhiều người đã phải ngã xuống nhưng chết vinh còn hơn sống nhục. Họ đã để lại danh thơm muôn thuở. Ra đi như những tấm gương sáng, trái lại vẫn còn sống mãi và có sức động viên lớn đối với trận đánh sau này…
7. Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
Các bạn tham khảo theo đường link bên dưới:
Top 8 mẫu Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
8. Cảm nhận 15 câu đầu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Có thể nhận định rằng, tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tượng đài nghệ thuật về những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Đặc thù chúng ta cảm thu được rõ nhất vẻ đẹp của những người nông dân đó trong 15 câu thơ đầu.
Mở đầu bài thơ là tiếng than “Hỡi ơi!”, đó chính là tiếng khóc cất lên giữa đất trời, khóc cho vong linh của những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, sống quả cảm, chết vẻ vang. “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”, câu thơ thứ nhất này tuy ngắn gọn nhưng đã nói chung được hoàn cảnh lịch sử quốc gia ta lúc bấy giờ: Giặc xâm lược có vũ khí hiện đại, công phá dữ dội, súng nổ rền vang cả mặt đất. Còn ta chỉ có tấm lòng và ý chí quyết tâm giữ nước của nhân dân. Câu thơ thứ hai, thi sĩ đã thẩm định người nghĩa sĩ nông dân qua hai gia đoạn cuộc đời của họ: mười năm có công vỡ ruộng chưa chắc đã nổi danh, nhưng chỉ sau một trận đánh tây, tuy phải hi sinh nhưng tiếng tăm vang như mõ.
Tiếp theo, hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân đã được trình bày qua hồi ức của thi sĩ. Họ vốn xuất thân là những người nông dân lam lũ, “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo túng”, có thể thấy tác giả Đồ Chiểu rất thương yêu đối với kiếp người nhỏ nhoi, cùng khổ đó, dù họ có cui cút, hì hụi làm ăn nhưng vẫn nghèo đói. Rồi họ là những người thuần nông, chất phác, ngoài những việc đồng áng, họ chẳng biết tới việc gì khác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ” ko gian sinh hoạt và làm việc của họ chỉ thu gọn lại trong ngôi làng, quanh quẩn và nhỏ nhỏ. Những công việc “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy”, bao nhiêu công việc luôn tay chân và họ đã quen hàng ngày, còn những chuyện “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ” lại chưa từng biết tới. Nhà thơ đã nhấn mạnh tới thực chất của những người nông dân nghèo khổ, họ ko hề biết tới việc quân việc lính hay mặt trận đao binh, họ chỉ phấn đấu lo cho khỏi đói khổ, rách rưới.
Thế rồi giặc tới, suốt ba năm chịu khổ, họ đã đứng lên, trở thành những người hùng nghĩa sĩ cứu nước, “Tiếng phong hạc” trình bày cho sự hoảng sợ trước tấn công của quân thù, vua và quan quân triều đình e sợ, người nông dân chịu cảnh khổ, chỉ biết “phập phồng” trông mong vào bậc quan quân của mình. Thế nhưng trông mong trong mòn mỏi, lòng căm thù bọn giặc cướp nước đã rực lửa, hừng hực trong con người họ. Lúc đầu họ chỉ căm ghét chúng như loài dị tộc tanh hôi “mùi tinh rán vấy vá”, ghét chúng như người nông dân “ghét cỏ” trên ruộng lúa của mình.
Nhưng rồi cứ thế ngày ngày giặc thù xuất hiện ngang nhiên như đâm vào mắt “bòng bong che”, người nông dân lúc đó chỉ còn thấy nhức nhối và gay gắt, căm thù mãnh liệt “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Tuy nhiên, sự căm thù đẩy lên tới đỉnh điểm lúc nhắm tới một điều hết sức cao cả, thiêng liêng, đó là sự tự do và thống nhất của dân tộc, trách nhiệm trước công lí, chính nghĩa. Sự giả dối, mặt nạ nhân dạo “khai hóa”, “tuyên giáo” của thực dân Pháp đã bị vạch trần, dã tâm của chúng đã được phơi bày. Từ đó người nông dân đã tự nguyện ra đánh giặc, và họ đã trở thành nghĩa sĩ:
“Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng người nào thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Câu thơ trình bày khí thế hào sảng và hăm hở, hùng dũng của người dân quân mộ nghĩa. Một lần nữa, thi sĩ lại nhắc lại tới xuất xứ của họ, họ là người “dân ấp dân lân”, bước vào tranh đấu nhưng ko được tập luyện hay sẵn sàng gì cả, những hiểu biết tối thiểu về kĩ thuật tác chiến cũng ko hay biết “Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn”, “Chín chục binh thư ko chờ bày bố”. Tuy họ ko có kĩ thuật, ko có võ nghệ và ko được tập tành nhưng họ lại rất chủ động “ko chờ”, “ko nài” nhưng mà đánh giặc, tự trang bị cho mình một cách thô sơ nhất “manh áo vải”, vũ khí là “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”. Hai câu thơ 14 và 15 đã trình bày một cách rất sống động và chân thực hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong phút chốc công đồn:
“Chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như ko…
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”
Câu văn với nhiều động từ, giới từ, đã tạo nên một ko khí hết sức căng thẳng, quyết liệt, người nghĩa sĩ lao trong mưa đạn của quân thù như cơn cuồng phong bão táp, khinh thường súng đạn tối tân, sát thương mạnh của quân thù. Họ xông xáo và lập nhiều chiến công vẻ vang.
Như vậy, qua 15 câu thơ đầu trong bài văn, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ lam lũ nhưng mà cao đẹp, chất phác và lớn lao. Đại diện cho hình tượng người nông dân trong lịch sử văn học yêu nước của Việt Nam.
9. Phân tích hình ảnh người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc thâm thúy. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều thảm kịch khổ cực và xấu số. Có nhẽ vì vậy nhưng mà hơn người nào hết ông càng cảm thu được nỗi đau mất nước lúc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau lúc chiếm được thành Gia Định chúng mở đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng phụ cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn tới. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa quân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần vũ Gia Định ủy quyền Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận hôm mai 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế ko những trình bày được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ Cần Giuộc nhưng mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng nhưng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ..
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp quốc gia đều rền vang tiếng súng. Chính sự từ nguy nan, đau thương đó, tình yêu quốc gia của những người nông dân phổ biến mới được trình bày, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bộc bạch cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được trình bày một cách rõ rệt và thâm thúy hơn lúc tác giả đã liên tục dùng giải pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi toan lo ” miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nông dân: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết tới “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen mặt trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà nhưng mà đứng lên đánh giặc.
Khi nhưng mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ trông ngóng mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”.
Thì ra cái thảm kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, ko hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì ko thể kiềm chế:
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông dân ghét cỏ.
… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu quốc gia tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã làm cho họ trở thành xinh xắn, nhấp nhánh.
Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã trở thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân lúc phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên tranh đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, đó là nét đẹp thực chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tới đây ko chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn nhưng mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực ý thức tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử nhưng mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố nhưng mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm làm cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như nhập vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đương đầu với quân thù vững mạnh với ” đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quân xâm lược nhà nghề, vậy nhưng mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có ” dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối nghịch với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thực phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã đó. Tấn thảm kịch này đã đưa tới cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn thảm kịch này nhưng mà đã làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên được bản người hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự nguy hiểm, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh tranh đấu, họ vẫn quyết đấu và quyết thắng, lấy ý thức xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với quân thù. Hoàn cảnh tranh đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ tranh đấu bằng chính tỉnh thần sự quyết đấu ko sợ hi sinh nên hiệu quả tranh đấu lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, ý thức dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng nhưng mà bi tráng, tượng trưng cho ý thức yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của ông cha ta. Bức tượng đài đó là dấu mốc trình bày cả một thảm kịch lớn của dân tộc – thảm kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái thảm kịch lớn đó, ý thức quật cường của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc – họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
10. Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài hoa lúc đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văn học nhưng mà trong suốt các thời kì qua chưa được nhắc tới thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong bài văn tế, hình ảnh người nông dân được khắc hoạ rõ ràng.Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, siêng năng lao động. Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết ko đội trời chung với giặc lúc thực dân Pháp xâm lược. Họ đã quả cảm tranh đấu và quả cảm hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng ko hề rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, lúc thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau lúc chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp mở đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng phụ cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ nhưng mà là nông dân, vì quá phẫn nộ kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên tranh đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, xoá sổ được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần vũ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc“, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Như chúng ta biết thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “Tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật đó: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi người nào. Hùng tráng ở nội dung tranh đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất người hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của quốc gia và dân tộc.
Mở đầu bài văn tế là Hai tiếng “Hỡi ơi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của thi sĩ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý tức là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu nhưng mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “cui cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, siêng năng là chịu thương chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng”
Cui cút làm ăn: có tức là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mỏi mệt hay vất vả thì họ vẫn thầm lặng, lặng lẽ chịu đựnng một mình nhưng mà chẳng nói với người nào .”Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng” đã hiện lên đầy đủ một vòng đời ko lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. Khởi đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo túng. Họ là những người nông dân nhưng mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết tới cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
“Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống thân thiện quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng lúc quốc gia quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn đó đã đứng lên tự nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng nhưng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn nhưng mà họ “mến” là theo đuổi
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế nhưng mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Bài Văn tế đã tái tạo lại những giờ phút giao tranh tàn khốc của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như ko; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Không khí mặt trận có tiếng trống thúc quân hối thúc, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như ko, tấn công như vũ bão, vẫy vùng giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm ý thức dũng cảm, kiên cường quật cường của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.Ông cũng trình bày rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân. Từ trước tới nay, đây là tác phẩm trước tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông mong con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về ngh thống thiết, bi người nào. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người người hùng:
“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”
Tổ quốc, quê hương vô cùng tiếc thương. Một ko gian rông lớn ngậm ngùi, đau. đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đớn đau của người vợ trẻ, nỗi thương nhớ của con cái được nói tới vô cùng xúc động:
“Đớn đau bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Các nghĩa sĩ đã sống quả cảm tranh đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương tranh đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng quốc gia nào cũng là độc lập, tự chủ. Không người nào được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:
“Ôi!
Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu nhưng mà họ đã để lại. Thà chết vinh còn hơn sống nhục. Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo nhưng mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, vong linh theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời kiếp kiếp nằm trong lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dung, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc.
“Nước mắt người hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định , tấm lòng mến thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.”Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và hàm ơn thâm thúy của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã quả cảm tranh đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc nhưng mà đối với họ “nó”rất quan trọng trong cuộc đời.Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về ý thức dũng cảm, lòng yêu nước thâm thúy để cho các thế hệ đi sau lúc đọc được bài văn Tế này nhưng mà noi theo để xây dựng quốc gia càng ngày giàu mạnh hơn.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên phân mục Tài liệu của Thư Viện Hỏi Đáp VN.
TagsVăn học
[rule_2_plain]
[rule_2_plain]
#Top #bài #phân #tích #Văn #tế #nghĩa #sĩ #Cần #Giuộc #siêu #hay
- Tổng hợp: Thư Viện Hỏi Đáp
- Nguồn: https://bigdata-vn.com/top-10-bai-phan-tich-van-te-nghia-si-can-giuoc-sieu-hay/